Tín, Nguyện, Hạnh là ba tư lương sanh về Tịnh Ðộ. Nếu tư lương không đủ, quyết không được vãng sanh. Vì thế, sự phát nguyện chiếm một địa vị tối quan trọng trong pháp môn tu Tịnh Ðộ.
1. Tín, Nguyện, Hành
– Tín: Đại thừa khởi Tín luận, quyển hạ Ngài Mã Minh có nói: Tín có bốn loại:
Niềm tin căn bản, tức là ưa thích pháp Chân Như;
Tin Phật có đầy đủ vô biên công đức, tức là thường thích đảnh lễ, cung kính, cúng dường, khéo nghe chánh Pháp, như pháp tu tập, hồi hướng về Nhất Thiết Trí;
Tin vào Pháp có lợi ích lớn, tức là thường ưa tu tập các hạnh ba la mật;
Tin vào Tăng có phẩm hạnh, tức là thường cúng dường các vị Bồ tát, chánh tu các hạnh lợi mình lợi người.
Đối với giáo môn niệm Phật mà nói, niềm tin là bước đầu của yếu tố tu tập thì phải tin chắc rằng:
Tin chắc thật Đức Phật Thích Ca vì lòng từ bi cứu độ chúng sanh thoát khổ luân hồi sanh tử mà thuyết pháp môn Tịnh Độ.
Tin chắc rằng công đức và bổn nguyện tiếp độ của Đức Phật A Di Đà và chư vị Bồ Tát ở cõi Tây Phương Cực Lạc.
Tin chắc tu tập Pháp môn Niệm Phật là phương tiện vi diệu thù thắng để được vãng sanh và thành tựu công hạnh giải thoát giác ngộ.
– Nguyện:
Luận Đại Trí Độ có dạy: “Trang nghiêm thế giới Tịnh Độ là việc to lớn, không chỉ dùng công đức mà cần phải có nguyện lực, giống như sức mạnh con trâu có thể kéo xe mà cần phải có người đánh xe mới đi được. Nguyện sanh Tịnh Độ thế giới cũng như vậy, phước đức ví như sức con trâu, nguyện lực ví như người đánh xe.” Khi có niềm tin vững vàng rồi phát nguyện tu tập theo pháp môn Tịnh Độ. Nguyện lực kiên cố thì năng lực tu học mới mạnh mẽ, chí nguyện vãng sanh vững vàng, không bị giao động trong quá trình tu học và lập trường giải thoát.
– Hành:
Bát Nhã Kinh có dạy: “Như vị Bồ Tát, từ khi vừa thấy hình tượng Phật rồi cho đến lúc chứng đắc vô thượng Bồ Đề, cũng không xa rời tác ý niệm Phật.” Thực hành việc tu Niệm Phật, hạ thủ công phu Niệm Phật tinh tấn, còn từ bỏ các điều ác làm tất cả các việc lành, phát tâm Bồ Đề, hồi hướng công đức có được cho tất cả chúng sanh, nguyện đồng sanh Tây Phương.
2. Điều kiện vãng sanh
Kinh Niệm Phật Ba La Mật, Đức Phật dạy: “Này Diệu Nguyệt cư sĩ, thế nào là niệm Phật chân chính? Muốn niệm Phật đúng pháp và tự biết mình chắc chắn vãng sanh, thì người niệm Phật phải phát khởi Mười Thứ Tâm Thù Thắng sau đây: thứ nhất là Tín Tâm, thứ hai là Thâm Trọng Tâm, thứ ba là Hồi Hướng Phát Nguyện Tâm, thứ tư là Xả Ly Tâm, thứ năm là An Ổn Tâm, thứ sáu là Đà La Ni Tâm, thứ bảy là Hộ Giới Tâm, thứ tám là Ba La Mật Tâm, thứ chín là Bình Đẳng Tâm, thứ mười là Phổ Hiền Tâm.”
Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Đức Phật dạy: “Nếu có chúng sanh nguyện sanh Cực Lạc thế giới phát ba thứ tâm liền được vãng sanh.
Những gì là ba tâm?
Một là Chí Thành Tâm.Hai là Thâm Tâm.Ba là Hồi Hướng Phát Nguyện Tâm.Còn có ba hạng chúng sanh sẽ được vãng sanh.
Những gì là ba hạng?
Một là từ tâm bất sát, đủ các giới hạnh.
Hai là đọc tụng kinh điển Phương Ðẳng Ðại Thừa.
Ba là tu hành Lục Niệm, hồi hướng phát nguyện, nguyện sanh Cực Lạc. Người muốn sanh nước Cực Lạc nên tu ba phước:
Một là hiếu nuôi cha mẹ, kính thờ bậc Sư Trưởng, có tâm nhơn từ chẳng giết hại và tu tập mười nghiệp lành.
Hai là thọ trì Tam Quy Y, đầy đủ các cấm giới và chẳng phạm oai nghi.
Ba là phát tâm Bồ Ðề, sâu tin nhơn quả, đọc tụng Kinh điển Ðại Thừa và khuyên dạy sách tiến người tu hành.”
Kinh A Di Đà Đức Phật dạy: “Xá-Lợi-Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói Đức Phật A Di Đà, rồi chấp trì danh hiệu của Đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, một lòng không tạp loạn. Thời người đó đến lúc lâm chung, Đức Phật A Di Đà cùng hàng Thánh Chúng hiện thân ở trước người đó. Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà.”
Trích trong “Pháp Môn Tịnh Độ” của HT Thích Trí Thủ